Dịch vụ Nổi bật
- Khác biệt giữa ly hôn thuận tình và ly hôn đơn phương
- Khởi kiện phân chia tài sản chung của vợ chồng
- Có được đòi tiền cấp dưỡng cho con
- Trách nhiệm cấp dưỡng cho con sau ly hôn
- Vợ đang mang thai có được yêu cầu ly hôn không ?
- Tư vấn về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
- Mua bán nhà đất bằng giấy viết tay có được cấp sổ đỏ ?
Chứng minh trong tố tụng hình sự
(Kiemsat.vn) - Hoạt động kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, sử dụng chứng cứ để chứng minh có hay không có hành vi phạm tội như cáo trạng của VKS đã truy tố được thực hiện tại phiên tòa là căn cứ để Hội đồng xét xử khẳng định được rằng tội phạm đã xảy ra, xác định người thực hiện tội phạm.
Ngoài việc kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập, để bảo đảm tính khách quan, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã quy định tại Điều 252 về việc Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ. Quy định này giúp cho hoạt động kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, sử dụng chứng cứ của Hội đồng xét xử khi chứng minh tội phạm được khách quan và toàn diện hơn.
Nghĩa vụ chứng minh
Theo quy định tại Điều 15 BLTTHS năm 2015 – Xác định sự thật của vụ án thì:
“Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội”.
Theo quy định trên thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm Cơ quan điều tra, truy tố và xét xử. Ngoài ra, một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 35 BLTTHS năm 2015. Quy định “… Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”, chính là một phần nội hàm của nguyên tắc suy đoán vô tội theo quy định tại Điều 13 BLTTHS năm 2015, đó là: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Theo quy định tại Điều 15 BLTTHS năm 2015 thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nghĩa vụ chứng minh tội phạm, nhưng việc chứng minh tội phạm của các cơ quan này ở mỗi giai đoạn tố tụng có những đặc điểm khác nhau. Ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có nghĩa vụ chứng minh tội phạm, còn ở giai đoạn xét xử, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và Hội đồng xét xử. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, do vậy, kể cả trong trường hợp người phạm tội không đưa ra được những chứng cứ để chứng minh là họ vô tội thì cũng không thể vì thế mà các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng kết tội họ.
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm những sự kiện và tình tiết khác nhau; mỗi sự kiện, tình tiết nói riêng cũng như toàn bộ vụ án đều phải được nghiên cứu, làm sáng tỏ một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện và chính xác. Để chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự thì vấn đề quan tâm hàng đầu chính là các cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm chính là tổng hợp những dấu hiệu đặc trưng cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Tuy nhiên, không phải bất cứ cấu thành tội phạm nào cũng có những dấu hiệu bắt buộc giống nhau; có những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm, có những dấu hiệu có trong cấu thành tội phạm của tội này nhưng lại không có trong cấu thành tội phạm của tội khác. Song để chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự thì đối với bất cứ một tội phạm nào, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều phải chứng minh được những vấn đề sau:
– Dấu hiệu hành vi thuộc yếu tố mặt khách quan của tội phạm;
– Dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố mặt chủ quan của tội phạm;
– Dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi thuộc yếu tố chủ thể của tội phạm.
Theo quy định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015 – Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự thì:
Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
(Trích bài của Tiến sĩ Phạm Minh Tuyên, Chánh án TAND tỉnh Bắc Ninh, nguồn TCKS số 13/2017).
các Tin tức - Trao đổi khác:
- Hà Nội: Cảnh sát khu vực lừa đảo hơn 3,8 tỷ đồng (27/11/2017, 10:54, am)
- Giấy đỏ ghi tên cả gia đình: Hay và dở (26/11/2017, 10:29, am)
- Bức xúc vì không khởi tố vụ xe khách cán chết 2 cháu bé (23/11/2017, 10:41, am)
- Rút yêu cầu khởi tố ở phúc thẩm, tính sao? (22/11/2017, 09:07, am)
- Phải xác nhận chữ ký trong đơn nhờ luật sư? (21/11/2017, 03:36, pm)
- “Tôi liêm khiết, cứ kiểm tra nghiêm túc nhưng không được… vòi!” (20/11/2017, 04:30, pm)
- Hàng loạt cán bộ ở Sơn La bị khởi tố gồm những ai? (19/11/2017, 08:48, am)
- Nguyễn Khắc Thủy lãnh 3 năm tù tội dâm ô trẻ em (18/11/2017, 06:48, pm)
- Níu kéo vợ con bằng cách giết người (17/11/2017, 11:32, pm)
- 19/6/2020 Những điểm mới về tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015
- 26/10/2018: 4 Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc nghìn tỷ
- 19/4/2018 Thủ tướng yêu cầu khởi tố hành vi đánh bác sĩ tại bệnh viện
- 12/4/2018: Phạm nhân phải chấp hành xong hình phạt tiền mới được xét đặc xá
- 9 / 4 / 2018 Chính thức thu tiền sử dụng đất đối với diện tích đất tăng thêm
- 20/3/2018 TAND tối cao hướng dẫn xác định vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành
- 16/3/2018 Trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự
- 14/3/2018 Luật sư được gặp người bị tạm giữ
- 9/3/2018: Thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự
- 7/3/2018 Điểm mới về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác
- 01/3/2018, Thông tư liên tịch về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có hiệu lực
- 24/2/2018 Cục Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp) thăm, chúc Tết LĐLSVN
- 8/2/2018: Những vấn đề cơ bản về THQCT, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
- 5/2/2018 Kinh nghiệm kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án dân sự
- 31/1/2018 Công khai danh tính người mua dâm có đúng không?
- 26/01/2018: Nhiều điểm mới về quyền của luật sư theo BLTTHS 2015
- 22/1/2018 : Tòa tuyên phạt ông Đinh La Thăng mức án 13 năm tù
- 28/12/2017 : Một bị can trong vụ án liên quan Trịnh Xuân Thanh bất ngờ tử vong
- 26/12/2017 : Chưa có tung tích của ông Vũ “nhôm”
- 25/12/20017 : Tòa tự ra văn bản ngăn chặn tài sản